Còn gọi là Thủ ô, Giao đằng, Dạ hợp, Địa tinh, Khua lình (Thái), măn đăng tua lình (Lào-Sầm Nưa), mằn năng ón (Thổ). Mần đăng = khoai lang, tua lình = con khỉ, vì giống củ khoai lang mọc ở chỗ khỉ hay đi lại.
Tên khoa học Polygonum multiflorum Thunb. Fallopia multiflora, (Pteuropterus cordatus Turcz).
Thuộc họ Rau dăm Polygonaceae.
Hà thủ ô đỏ (Radix Polygoni multiflori) là rễ củ phơi khô của cây hà thủ ô.
Mô tả cây.
Hà thủ ô còn có tên là giao đằng vì dây leo xoắn vào nhau. Tên khoa học Polygonum multiflorum (Polygonum là có nhiều đốt, nhiều mắt, multiflorum là nhiều hoa, vì cây có nhiều đốt, nhiều hoa).
Đây là một loại dây leo, sống nhiều năm. Thân mọc xoắn vào nhau. Mặt ngoài thân có màu xanh tía có những vân hoặc bì khổng, mặt thân nhẵn, không có lông. Lá mọc so le, có cuống dài. Phiến lá hình tim hẹp, dài 4-8cm, rộng 2,5-5cm, đầu nhọn, phía cuống hình tim, hoặc hình mũi tên, mép nghiêng hoặc hơi lượn sóng, cả hai mặt đều nhẵn và không có lông. Lá kèm mỏng, màu nâu nhạt ôm lấy thân. Hoa nhỏ, đường kính 2mm, có cuống ngắn 1-3mm. Hoa mọc thành chùm nhiều nhánh. Cánh hoa màu trắng . Nhị 8 với 3 nhị hơi dài hơn. Bầu hình 3 cạnh, vòi ngắn gồm 3 cái rời nhau, nuốm hình mào gà, rũ xuống. Mùa hoa tháng 10, mùa quả tháng 11.
Phân bố, thu hái và chế biến.
Hà thủ ô mọc hoang ở rừng núi, nhiều nhất ở các tỉnh Tây Bắc sau đến các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Lào Cai, Lai Châu, Tây Nguyên.
Có mọc ở Trung Quốc (Giang Tô, Quảng Đông, Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Phúc Kiến), Nhật Bản.
Cây chưa được trồng: Có thể trồng bằng dây hay bằng hạt. Sau 4-5 năm trở lên mới có thể thu hoạch.
Thu hoạch cây mọc hoang, thường tiến hành vào mùa thu hay mùa xuân, mùa thu tốt hơn. Đào về rửa sạch đất, bổ đôi hay bổ tư đồ rồi phơi khô, có nơi không đồ mà phơi ngay, muốn có hà thủ ô miếng thì hái về còn tươi, đem thái ngay, đồ chín rồi phơi hoặc đồ chín rồi mới thái và phơi.
Có nhiều người đồ hà thủ ô đen mới dùng, gọi là hà thủ ô chế.
Thành phần hóa học
Hà thủ ô đã được hai nhà nghiên cứu Nhật Bản nghiên cứu từ năm 1923 (Nhật Bản dược học tạp chí, 42: 144, 1923). Theo các tác giả, hà thủ ô của Tứ Xuyên, Trung Quốc có các chất sau đây:
Các chất anthraglucozit với tỷ lệ 1,7% trong đó chủ yếu là chrysophanola, emodin và rhein.
Ngoài ra còn có chất đạm 1,1%, tinh bột 45,2%, chất béo 3,10%, chất vô cơ 4,5%, các chất tan trong nước 26,40%, lexitin.
Lexi tin thường được dùng trong những trường hợp thiếu dinh dưỡng, thần kinh suy nhược.
Các anthraglucozit có tác dụng làm tăng sự bài tiết của dịch tràng, xúc tiến sự co bóp của ruột giúp cho sự tiêu hóa và cải thiện dinh dưỡng.
Tác dụng dược lý.
Mẫn Bính Kỳ đã báo cáo trong Nhật dược chí (11-1-1950) về tác dụng dược lý của Hà thủ ô như sau:
+ Cho thỏ uống nước sắc hà thủ ô rồi theo dõi ảnh hưởng đối với lượng đường trong máu thì thấy sau khi uống 30 phút đến 60 phút, lượng đường trong máu tăng tới mức cao nhất, sau đó giảm dần, 6 giờ sau khi uống thuốc, lượng đường trong máu so với mức bình thường thấp hơn 0,03%.
+ Lexitin là thành phần chủ yếu của thần kinh hệ cho nên hà thủ ô có thể dùng trong những trường hợp suy nhược thần kinh và bệnh về thần kinh. Lexitin còn giúp sự sinh ra huyết dịch và bổ tim.
Dung dịch lexitin pha loãng 1/10.000 đến 1/200.000 có tác dụng làm mạnh tim cô lập, nếu tim đã yếu mệt thì tác dụng lại càng rõ rệt hơn.
Lexitin là một nguồn photpho dễ hấp thụ và giúp chi hiện tượng chuyển hóa chung được cải thiện.
+ Do thành phần anthraglucozit, hà thủ ô có tác dụng làm xúc tiến sự co bóp của ruột, xúc tiến sự tiêu hóa, cải thiện dinh dưỡng.
Công dụng và liều dùng.
Hà thủ ô có vị đắng chát, hơi ngọt, tính bình; có tác dụng bổ gan thận, bổ huyết, ích tinh túy, hòa khí huyết, mạnh gân xương, nhuận tràng. Sử dụng bổ máu chống viêm. Chữa thận suy, yếu gan; Thần kinh suy nhược, ăn ngủ kém; Sốt rét mạn tính, thiếu máu, ít sữa; Các bệnh của phụ nữ sau khi đẻ, xích bạch đới; Đau lưng thấp khớp, di tinh, khí hư, đại tiện ra máu, tiểu buốt, tiểu rắt, tiểu ra máu, mẩn ngứa, bệnh ngoài da.
Uống lâu ngày giúp chữa các bệnh xơ cứng mạch máu não đối với người già, người bị huyết áp cao, hoặc nam giới tinh yếu khó có con; Chữa huyết hư máu nóng, tóc khô hay rụng, sớm bạc, hồi hộp chóng mặt, ù tai hoa mắt, lưng gối đau mỏi, khô khát táo bón; Đều kinh bổ huyết.
Ngày dùng 12-20g dạng nước sắc, rượu thuốc, hay tán bột uống. Dùng riêng hoặc kết hợp với các vị thuốc khác.
Những đơn thuốc có Hà thủ ô phổ cập trong nhân dân:
1. Người già yếu, thần kinh suy ngược ăn uống kém tiêu:
Hà thủ ô 10g | Trần bì 3g |
Đại táo (táo đen Trung Quốc) 5g | Sinh khương 3g |
Thanh bì 2g | Cam thảo 2g |
Nước 600ml |
Sắc còn 200ml, chia 3-4 lần uống trong ngày.
2. Bài thuốc Thất bảo mỹ nhiệm đơn. Làm cho tóc râu trắng hóa đen, khỏe gân xương, bền tinh khí, sống lâu:
Hà thủ ô đỏ và hà thủ ô trắng, mỗi thứ 600g ngậm nước vo gạo 4 đêm ngày, cạo bỏ vỏ, dùng đậu đen đãi sạch rồi cho hà thủ ô vào chõ: một lượt hà thủ ô, một lượt đậu đen bắc lên bếp đồ chín đậu đen, đem bỏ đậu lấy hà thủ ô phơi khô, rồi lại đồ, làm như vậy 9 lần. Cuối cùng lấy hà thủ ô sấy khô và tán bột.
Xích và bạch phục linh, mỗi vị 600g, cạo bỏ vỏ tán bột, đãi với nước tương trong, lọc lấy bột lắng ở dưới, nắm lại, tẩm với sữa người phơi khô.
Đương quy 320g tẩm rượu phơi khô. Câu kỷ tử 320g tẩm rượu phơi khô.
Thỏ ty tử 320g tẩm rượu cho nứt ra, giã nát phơi khô.
Bổ cốt chi 100g, trộn với vừng đen (hắc chi ma) sao cho bốc mùi thơm. Tất cả giã nát trộn đều thêm mật vào làm thành viên 0,5g (bằng hạt ngô). Ngày uống 3 lần, mỗi lần 50 viên. Sáng dùng rượu chiêu thuốc, trưa dùng nước gừng và tối dùng nước muối (Theo tích thiện đường phương).
3. Hà thủ ô hoàn. Công dụng như trên nhưng ít vị hơn:
Hà thủ ô 1.800g thái mỏng, ngưu tất 600g thái mỏng. Hai vị trộn đều, dùng một đấu to đậu đen đãi sạch. Cho thuốc vào chõ, cứ một lượt thuốc, một lượt đậu. Đồ chín đậu. Lấy thuốc ra phơi khô. Làm như vậy 3 lần rồi tán bột. Lấy thịt táo đen Trung Quốc trộn với bột làm thành viên 0,50g. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 30 viên. Dùng rượu hâm nóng để chiêu thuốc (theo Hòa tễ cục phương)
4. Hà thủ ô tán. Công dụng cũng như bài trên (Bản thảo cương mục):
Hà thủ ô cạo vỏ, thái mỏng phơi cho khô, tán bột. Ngày uống 4g vào sáng sớm, chiêu thuốc bằng rượu.
5. Chữa huyết hư máu nóng, tóc khô hay rụng, sớm bạc, và hồi hộp chóng mặt, ù tai, hoa mắt, lưng gối rũ mỏi, khô khát táo bón:
Dùng hà thủ ô chế, địa sinh, huyền sâm, mỗi vị 20g sắc uống.
6. Chữa người già xơ cứng mạch máu, huyết áp cao hoặc nam giới tinh yếu khó có con:
Dùng hà thủ ô 20g, tầm gửi dâu, kỷ tử, ngưu tất đều 16g sắc uống.
7. Bổ khí huyết mạnh gân cốt:
Hà thủ ô trắng và hà thủ ô đỏ với lượng bằng nhau, ngâm nước vo gạo 3 đêm, sao khô tán nhỏ, luyện với mật làm viên to bằng hạt đậu xanh. Uống mỗi ngày 50 viên với rượu vào lúc đói.
8. Chữa đái dắt, đái buốt, đái ra máu:
Dùng Hà thủ ô, lá huyết dụ bằng nhau sắc rồi hòa thêm mật vào uống.
9. Điều kinh bổ huyết:
Hà thủ ô (rễ, lá) 1 rổ lớn, đậu đen 1/2kg. Hai thứ giã nát, đổ ngập nước, nấu nhừ, lấy vải mỏng lọc nước cốt, nấu thành cao, thêm 1/2l mật ong, nấu lại thành cao, để trong thố đậy kín, mỗi lần dùng 1 muỗng canh, dùng được lâu mới công hiệu.
Chú thích:
+ Uống hà thủ ô thì kiêng ăn hành tỏi, cải củ. Đối với người có huyết áp thấp và đường huyết thấp kiêng dùng.
+ Ngoài rễ củ hà thủ ô, người ta còn dùng lá và cành hà thủ ô, đun nước tắm và rửa để chữa các chứng lở ngứa, liều lượng tùy tiện. Có thể phối hợp nấu với lá ngải.
Gửi câu hỏi cần giải đáp: