Mô tả:
Cây: Cây nhỡ hay cây to cao 10m hay hơn. Vỏ thân và lá có nhựa mủ trắng, vỏ màu xám, khi bẻ đôi sẽ thấy những sợi nhựa trắng mảnh như tơ nối giữa các mảnh vỏ. Lá mọc so le, hình trứng rộng, dài 6-8cm, rộng 3-7,5cm, màu lục bóng, mép khía răng. Lá cũng có gôm tựa gutta percha như ở vỏ. Hoa đơn tính khác gốc; hoa đực và hoa cái không có bao hoa; hoa đực mọc thành chùm; hoa cái tụ tập 5-10 cái ở nách lá. Quả hình thoi dẹt, màu nâu. Hoa tháng 3-5; quả tháng 7-9.
5. Phân bố:
Cây của Trung Quốc mọc hoang ở vùng lạnh và cũng được trồng nhiều. Ta nhập giống vào trồng năm 1958, đến năm 1960, việc trồng thử ở Sapa đạt kết quả tốt. Ta đã nhân giống và trồng ở một số nơi khác ở Vĩnh Phú. Lai Châu, Thanh Hoá, Gia Lai, Lâm Đồng thì nhận thấy cây sinh trưởng tốt ở vùng núi cao trên 1000m.
6. Trồng trọt:
Đỗ trọng sinh trưởng thích hợp ở độ cao 1000-15o00m so với mặt nước biển, nơi có khí hậu lạnh mát quanh năm, nhiệt độ trung bình 15-18oC, cao tuyệt đối 30-32oC, lượng mưa trung bình 2000-2500mm. Cây ưa ánh sáng đầy đủ, tâng đất canh tác sâu và ẩm nhưng thoát nước với pH = 6,5-7.
Trồng Đỗ trọng bằng hạt, bằng cành hoặc bằng rễ.
Trồng bằng cành giâm: Vào mùa xuân, khi cây chưa nẩy lộc, lấy cành bánh tẻ ở cây 1 năm tuổi, chặt thành oạn dài 20-30cm, mỗi đoạn có 3-5 mắt ngủ. Khi cắt, chú ý không làm giập mắt cắt. Có thể nhúng mặt cắt vào dung dịch 2,4 D 10-15 p.p.m trong 3-5 phút, rồi giâm vào luống đất đã chuẩn bị sẵn. Cắm cành giâm chếch khoảng 45o và ngập sâu 2/3 cành, thành hàng cách nhau độ 20cm, hom cách nhau 10-12cm. Sau đó nén chặt đất và phủ rơm rạ kín mặt luống để giữ ẩm cho hom giống khỏi bị khô. Hàng ngày tưới ẩm và làm sạch cỏ.
Trồng bằng cành chiết: Vào mùa xuân hoặc mùa thu, chọn cành bánh tẻ, cắt bỏ khoanh vỏ dài độ 3 cm. Dùng đát bùn trộn với rơm rác hoặc mùn cưa trộn với dung dịch 2,4 D 10-15 p.p.m bó vào vết cắt. Chú ý bó thật chặt và đảm bảo mùn đất luôn ẩm để cành chiết chóng ra rễ.
Trồng bằng rễ; Đào nhẹ đất xung quanh gốc để tìm rễ có đường kính 0,5-1cm hoặc to hơn. Dùng dao sắc khía ngang vỏ rễ thành từng đoạn. Sau một thời gian, từng đoạn rễ sẽ mọc mầm. Khi đến tuổi, chặt thnahf đoạn theo vết khía cũ đem trồng. Ở vườn ươm cây từ hạt, khi đánh cây đi trồng, nếu làm đứt một số rễ thì những đoạn rễ này vẫn mọc mầm được, tiếp tục chăm sóc sẽ được thêm cây giống.
Các phương pháp nhân giống trên thường sau 1 năm mới đánh trồng. Phương pháp ươm từ hạt, hệ số nhân cao, vận chuyển hạt dễ dàng và ít tốn kém.
Đánh trồng vào mùa xuân và mùa thu. Nhưng tốt nhất trồng vào mùa xuân, khi cây chưa nẩy lộc.
Nhân giống: Đỗ trọng trồng ở Sapa khoảng 7-8 năm bắt đầu ra hoa quả. Có cây đực, cây cái riêng biệt. Năng suất và chất lượng hạt giống phụ thuộc vào tuổi cây và điều kiện trồng trọt. Hạt của cây dưới 10 năm tỷ lệ mọc khoảng 10%, trên 10 năm tỷ lệ mọc cao hơn. Nếu trồng thưa, có đầy đủ ánh sáng, cành quả nhiều và hạt mẩy chắc. Vì vậy, ở vườn giống phải trồng thưa, khoảng cách 2,5 x 3,5m hoặc 2 x 3m. Chọn sườn đồi phía nam để trồng Đỗ trọng giống.
7. Bộ phận dùng:
Vỏ thân đã phơi hay sấy khô của cây Đỗ trọng (Eucomia ulmoides Oliv.).
Tác dụng dược lý:
Tác dụng hạ áp: sắc nước và cồn chiết xuất thuốc đều có tác dụng hạ áp, nước sắc còn có tác dụng mạnh hơn, nước sắc Đỗ trọng sao tốt hơn nước sắc Đỗ trọng sống. Cơ chế tác dụng chủ yếu do thuốc trực tiếp làm thư giãn cơ trơn của mạch máu, nhưng có tác dụng hạ áp thời gian ngắn.
Thuốc có tác dụng hạ cholesterol huyết thanh, dãn mạch tăng lưu lượng máu của động mạch vành.
Có tác dụng chống viêm, có tác dụng tăng cường chức năng vỏ tuyến thượng thận, tác dụng hưng phấn hệ thống tuyến yên, vỏ tuyến thượng thận.
Thuốc có tác dụng an thần giảm đau (trấn kinh, trấn thống).
Thuốc làm tăng tính miễn dịch của cơ thể: thực nghiệm chứng minh thuốc có tác dụng điều chỉnh chức năng của tế bào miễn dịch và nhận thấy lá, cành, vỏ tái sinh của Đỗ trọng đều có tác dụng như nhau.
Tác dụng đối với tử cung: nước sắc và cồn chiết xuất Đỗ trọng có tác dụng hưng phấn tử cung cô lập của thỏ và chuột lớn làm cho tử cung ở trạng thái co bóp được hồi phục, nhưng đối với tử cung cô lập của mèo thì tác dụng hưng phấn lại rất nhẹ.
Thuốc có tác dụng rút ngắn thời gian chảy máu và tác dụng lợi tiểu.
Thuốc sắc có tác dụng ức chế với mức độ khác nhau đối với tụ cầu khuẩn vàng, trực khuẩn lî Flexner, trực khuẩn coli, trực khuẩn mủ xanh, trực khuẩn bạch cầu, phế cầu khuẩn, liên cầu khuẩn dung huyết B.
Công năng:
Bổ can thận, mạnh gân xương, an thai. Thuốc bổ thận, gân cốt, chữa đau lưng, mỏi gối, di tinh, đái đêm, liệt dương, phụ nữ khó có thai, động thai. Chữa cao huyết áp.
Cách dùng, liều lượng:
5-12g mỗi ngày dạng thuốc sắc, ngâm rượu hay cao lỏng.
Gửi câu hỏi cần giải đáp: