Là một cây cực kỳ gần gũi với đời sống nhân dân, gừng có mặt trong vườn nhà từ nông thân tới thành phố; có mặt trong từ bữa ăn, thức uống;… gừng cũng là một loại dược liệu được sử dụng trong Y học cổ truyền với nhiều công dụng.
1.Tên gọi: Gừng, khương,…
2. Tên khoa học: Zingiber officinale (Willd.) Roscoe họ Gừng (Zingiberaceae).
3. Phân loại
Sinh khương. gừng sống
Can Khương: gừng khô
Ổi khương : gừng lùi
Bào khương là củ gừng đồ cho chín rồi để trong mát cho đến khô, sao lửa to cho xém đen. Bào khương còn gọi là Bạch khương, Quân khương.
Hắc khương: Gừng sao đen
Thán Khương: Gừng khô đốt thành than cho vào chai cất giữ
Khương bì: vỏ gừng.
Khương diệp: Lá gừng
4. Phân bố
Gừng được trồng ở khắp nơi trong nước ta để lấy củ ăn và làm thuốc, dùng trong nước hoặc xuất khẩu.
5. Bào chế
Sinh khương: Gừng tươi làm sạch, bỏ vỏ.
Can Khương: luộc chín gừng rồi đem phơi gừng mới không bị mọt ăn.
Ổi khương : gừng lùi vào lửa cho chín
Hắc khương: Gừng sao đen
Tiêu khương: gừng khô thái lát dày, sao sém vàng, đang nóng, vẩy vào ít nước, đậy kín, để nguội
Thán Khương: Gừng khô đốt thành than cho vào chai cất giữ
Khương bì: ừng rửa sạch, cạo lấy vỏ
Khương diệp: dùng tươi, thu hái rửa sạch
6. Thành phần hóa học
Thân rễ chứa thành phần chính của dầu dễ bay hơi gingerol (Zingiberol, C15H26O), zingiberene (Zingiberene, C15H24 ), camphene , thì là nước alkenyl được thế, bornyl , aldehyde và citron báo chí olein thích. Hơn nữa vẫn chứa gingerol hăng thành phần (gingerol), một thành phần hăng của enone dầu gừng (Shogaol, C17 H24O3 ) và kết tinh thành phần hăng zingerone (Zingerone, C11H14O3 ) vv .
8.Tác dụng dược lý
Hệ thống tiêu hóa
Đối với những con chó bị cô lập dạ dày nhỏ và đờm thực quản, thuốc sắc gừng 50% được đặt vào miệng của con chó, có thể gây ra tác dụng hai pha đối với việc tiết axit dạ dày và dịch dạ dày, bị ức chế trong vài giờ đầu, sau đó bị ức chế trong vài giờ đầu, sau đó Vui mừng trong một thời gian dài. Truyền 25% thuốc sắc vào 200 ml vào dạ dày là kích thích. Con chó có dạ dày nhỏ bị cô lập chỉ lấy 0,1-1 g gừng, dịch tiết của dạ dày tăng lên đáng kể và kích thích tiết axit clohydric tự do, nhưng quá trình tiêu hóa pepsin trên protein đã giảm và tác dụng của lipase được tăng cường .
Sử dụng chiết xuất gừng để ức chế nôn do đồng sunfat , uống 30 ml nước gừng 10-50% cũng có hiệu quả, nhưng sử dụng 30 ml nước gừng 5% không hiệu quả. Hỗn hợp zingerone và zingerol được phân lập từ gừng có tác dụng chống nôn với liều tối thiểu hiệu quả là 3 ml. Nó không hiệu quả đối với nôn mửa do apomorphin và nôn do digitalis. Ketone gừng do thỏ quản lý thông qua đường tiêu hóa có thể làm thư giãn đường ruột và giảm nhu động. Gừng là một loại tác nhân điều khiển gió có tác dụng kích thích nhẹ trên đường tiêu hóa, có thể làm tăng căng thẳng ruột, nhịp và nhu động, và đôi khi giảm, do đó nó có thể được sử dụng cho đau bụng do đầy hơi hoặc các nguyên nhân khác.
Tuần hoàn và hệ hô hấp
Bình thường nhai dân gừng 1 g (không nuốt), có thể huyết áp tâm thu tăng trung bình 11,2 mm Hg, 14 mm Hg huyết áp tâm trương tăng lên, không có tác động đáng kể đến xung. chiết xuất rượu gừng có tác dụng kích thích trên mèo của vận mạch và trung tâm hô hấp, trung tâm cũng có một tác dụng kích thích trực tiếp
Tác dụng kháng khuẩn và chống độc tố Thử nghiệm in vitro của gừng có tác dụng ức chế Trichophyton rubrum và có tác dụng diệt vi khuẩn Trichomonas vagis [35] . Khác Tiêm tĩnh mạch một lượng lớn zingerone dưới da ếch ếch và thỏ có thể gây tê liệt vận động trung tâm, đôi khi có thể làm giảm huyết áp ở thỏ
Nghiên cứu gần đây Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng hoạt tính sinh học tự nhiên của gừng, đặc biệt là nước gừng và zingerol 6, ức chế sự tăng sản ung thư ruột kết và sự hình thành mạch trong ống nội mô đại tràng trong ống nghiệm. Xét nghiệm tế bào thymidine được dán nhãn confirmed đã khẳng định khả năng chống đông của nó, việc sử dụng các tế bào nội mô không ổn định microsat vệ tinh cho thấy tác dụng ức chế của zingerolol 6 đối với sự hình thành mạch. Cả nước gừng và zingerolol 6 đều có tác dụng ức chế trực tiếp đến sự tăng sinh của tế bào ung thư ở chuột và có tác động gián tiếp đến sự phát triển của tế bào nội mô và ức chế tế bào nội mô. Các xét nghiệm ống nghiệm cho thấy zingerolol 6 có hai tác dụng chống ung thư: ức chế trực tiếp tăng sản ung thư ruột kết và ngừng vận chuyển máu đến khối u thông qua quá trình tạo mạch. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng ethanol và n-hexane được chiết xuất từ gừng có tác dụng kháng khuẩn đối với ba trực khuẩn Gram âm kỵ khí, cranberry gingivalis và P. eutropha, gây ra các bệnh về miệng. Năm loại phức hợp gừng được tách ra khỏi sắc ký cột hoạt động bằng sắc ký lỏng và cấu trúc của chúng được phân tích bằng cộng hưởng từ hạt nhân, quang phổ khối ion hóa điện hóa và kiểm tra kháng khuẩn. Hai zingerone 10 và zingerol 12 có tính kiềm cao có hiệu quả trong việc ức chế nguồn uống. Một nghiên cứu gần đây về điều trị các bệnh tim mạch ở gừng đã chỉ ra rằng gừng có thể có tác dụng chống viêm, chống oxy hóa, chống tiểu cầu, hạ huyết áp và hạ lipid máu. Điều đáng chú ý hơn cho đến nay là liều gừng 5 gram có tác dụng chống tiểu cầu đáng kể trong thử nghiệm ở người
9. Gừng trong y học cổ truyền
Khí vị: Vị cay khí ôn rất nhiệt, không độc, bẩm thụ khí dương, tính phù mà đưa lên
Quy kinh: Phế, Tỳ, Vị.
Công năng: giải cảm, tán hàn, làm ấm tỳ vị, cầm nôn, tiêu đàm giảm ho.
Chủ trị:Tính công bốc mà không thu liễm, tán phong hàn thấp tê, đờm tắc, mũi tịt, đầu nhức, ngoại cảm khí hết ở khoảng bì phu, thông suốt thân minh trừ ác khí, hắc loạn trường đầy và hết thảy mọi chứng trúng độc, sốt rét, chứng đờm, điều hòa dinh vệ mà vận hành tân dịch của tỳ vào phê bình, khai vị. Phàm mọi bệnh của tỳ và vị đều trong dụng nó, là thuốc thánh để chữa nôn mửa, sau khi sinh dùng nó thì phá được huyết ứ. Người ta chỉ biết nó là thuốc của dạ dày, mà không biết nó thông tâm phế, khí của tâm thông thì khí của toàn thân đều chính, mà tà khí không có chỗ ở. Đan Khê có nói: Đề cá thì lạnh, bỏ vỏ đi thì nóng, thực ra, không phải tinh của nó là lạnh, vì để cá vỏ thì chạy ra ngoài biểu mà trừ nhiệt, bỏ vỏ đi thì nhiệt vẫn giữ lại ở trong.
Kiêng kỵ:
Không dùng vị thuốc này khi âm suy kìm vượng nhiệt bên trong.
Sinh khương trợ hỏa thương âm, cho nên người nhiệt thịnh và âm hư nội nhiệt kỵ uống.
Ăn gừng lâu, tích nhiệt mắt bệnh. Phàm người bệnh trĩ ăn nhiều kiêm rượu, lập tức phát bệnh nhanh. Người ung nhọt ăn nhiều thì sinh ác nhục.
Uống lâu tổn âm thương mắt, âm hư nội nhiệt, âm hư ho thổ huyết, biểu hư có nhiệt ra mồ hôi, tự ra mồ hôi, đổ mồ hôi trộm, tạng độc hạ huyết, do nhiệt nôn lợm, đau bụng hỏa nhiệt, theo phép đều kiêng vậy.
Nội nhiệt âm hư, mắt đỏ bệnh hầu, đau nhọt chứng huyết, ói ỉa có hỏa, thử nhiệt thời chứng, nhiệt hao (hen) đại suyễn, thai sản sa trướng và sau thời bệnh, sau sa đậu đều kị vậy.
Bệnh nhân huyết áp cao không nên dùng gừng (vì gừng có tác dụng làm tăng huyết áp)
Liều lượng thường dùng: 4 -12g hoặc 2 – 5 lát
Hợp dụng:
Tân tiêu làm sứ
Ghét Hoàng cầm, Hoàng liên
Khử độc của bán hạ, Lương khương, Hậu phác.
Cho vào thuốc phát tán thì dùng Sinh khương
Cho vào thuốc tân lương thì dùng Khương bì, vào thuốc ôn trung làm ấm trung tiêu ) thì dùng Bào khương
Cho vào thuốc bổ huyết, chỉ huyết, và thuốc dẫn hỏa đi xuống thì dùng Hắc khương, vì sắc nó đen than thì thu liễm được mà giáng xuống
Cho vào thuốc, tỳ vị để chỉ tả thì dùng ổi khương
Chú ý:
Gừng là vị thuốc có tác dụng ôn tán nên thường được phối hợp với Cam thảo và Đại táo, dùng nhiều trong các bài thuốc có nhiều vị thuốc đắng lạnh và nê trệ để điều hòa tính chất vị thuốc đó.
10. Tính chất riêng của từng dạng bào chế gừng
Sinh khương: Phát tán phong hàn, ôn kinh thông dương.
Can Khương: Phá huyết tiêu đờm, đau bụng, nôn mửa đều dùng được; ấm trung tiêu đưa khí xuống, trừ trưng hà tích tụ, khai vị, giúp tỳ tiêu thức ăn ngừng trệ. Để sống thì phát hãn nhanh chóng, sao đen thì chỉ huyết rất mau
Ổi khương : Chuyên trị các chứng đường tiết, thủy tà, có khả năng làm ấm trung tiêu .
Hắc khương: Chỉ huyết trong nội khoa
Thán Khương: Chỉ huyết ngoại khoa
Khương bì: vỏ gừng dùng để chữa các bệnh thủy thủng, tiêu phù nề sưng trướng
Khương diệp: Lá gừng mùi rất thêm thường cho vào nồi bí hầm dừa, hay chè trôi nước ăn rất thơm tránh bị đau bụng khó tiêu.
11. Ứng dụng lâm sàng
11.1.Giải cảm phong hàn: thường kết hợp với Quế chi, Tô diệp, Phòng phong để tăng tác dụng làm ra mồ hôi. Sau khi mắc mưa lạnh để phòng cảm lạnh chỉ cần sắc gừng với đường đen uống nóng.
Bài thuốc trị cảm hàn đau đầu nghẹt mũi: Sinh khương 12g, Tô diệp 8g, Phòng phong 12g sắc uống.
11.2.Chữa nôn, buòn nôn do tỳ vị hư hàn: (có thể do cảm hoặc rối loạn tiêu hóa). Người xưa cho gừng là một vị thuốc chủ yếu chữa nôn (Khương vị trị âu yếu dược). Thường dùng nước gừng đặc 3 -10 giọt, uống cầm nôn hoặc kết hợp với Bán hạ, như bài TIỂU BÁN HẠ THANG gồm Sinh khương, Bán hạ: mỗi thứ 8 -12g sắc uống. Trưòng hợp nôn do tỳ vị hư hàn có thể kết hợp trong các bài thuốc ôn tỳ như TỨ QUÂN TỬ THANG, LÝ TRUNG THANG.
11.3.Dùng gừng để tăng khẩu vị trợ tiêu hóa: gia thêm trong các bài thuốc bổ làm giảm bớt tính nê trệ của thuốc bổ, dùng gừng phối hợp với Đại táo, Cam thảo kiện vị hòa trung như bài TIỂU KIẾN TRUNG THANG gồm: Bạch thược 12g, Quế chi 6g, Chích thảo 4g, Đại táo 4 quả, Sinh khương 1,2g, Đường phèn 20 – 40g, sắc thuốc xong cho đường phèn vào uống.
11.4.Chữa ho do ngoại cảm phế hàn hoặc ho lâu ngày: như viêm đường hô hấp trên, viêm phế quản cấp, mạn tính dùng gừng độc vị sắc với nước đường hoặc mật ong hoặc dùng phối hợp với các vị thuốc tán hàn chỉ khái khác.
11.5.Giải độc Nam tinh và Bán hạ: thường dùng gừng để chế thuốc Nam tinh Bán hạ, trường hợp nhiễm độc Nam tinh Bán hạ có cảm giác nóng bỏng sưng đau ở họng lưỡi, uống nước gừng cho thêm 30 – 60g giấm uống hoặc ngâm súc.
Gửi câu hỏi cần giải đáp: